KHOA HỌC VÀ KINH THÁNH

Sứ đồ Phao-lô xác chứng “Cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời cảm thúc, có ích cho sự dạy dỗ, khiển trách, sửa trị và huấn luyện trong sự công chính” (II Ti-mô-thê 3:16). Và Sứ đồ Phierơ cũng đã khẳng định “không có lời tiên tri nào đến bởi ý người, nhưng người ta được Đức Thánh Linh cảm thúc nói ra từ Đức Chúa Trời” (II Phi-e-rơ 1:21).

Thánh Kinh mang bản chất nhân tính bao gồm chữ viết, văn phạm, văn mạch, văn hoá, văn chương, lý luận, hoàn cảnh lịch sử, địa lý, v. v… Ngoài ra Kinh thánh còn mang bản chất thần tánh như vô ngộ, có thẩm quyền, hiệp nhất và huyền nhiệm. Vậy giữa khoa học và Kinh thánh có hoà hợp nhau không?

Sự hoà hợp giữa khoa học và Kinh thánh là gì? Ma-thi-ơ 12:40 “Vì như Giô-na ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm, cũng vậy, Con Người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm” đề cập đến Giô-na ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm. Một câu chuyện mà nhiều người nhận thấy khó tin, vậy mà Chúa Giê-su đã tin nhận câu chuyện ấy. Trước đây người ta nghĩ rằng chẳng có con cá nào to đủ để nuốt trọn một con người, tuy nhiên ngày nay người ta biết rằng loại cá nhà táng, loại cá mập trắng lớn và cá voi có thể làm điều đó. Các sinh vật biển nầy có thói quen mửa ra những thứ trong bụng nó trước khi chết.

Có những lời ký thuật, rất hết sức xác thực, về những con người trong thời buổi hiện đại đã bị nuốt trọn bởi những loài cá lớn nầy và sau đó được giải cứu mà vẫn sống. Một thuỷ thủ người Anh bị ngã qua mạng tàu, bị con cá nhà táng nuốt chửng, đã sống một ngày rưỡi trong bụng con cá lớn nầy. Con cá bị săn đuổi, bị đánh bắt và người đàn ông nầy được lấy ra khỏi bụng cá, bất tỉnh nhưng vẫn còn sống. Câu chuyện nầy nói lên sự hoà hợp giữa khoa học và Kinh thánh. 

A. THIÊN VĂN HỌC: 

Trái đất hình tròn và không có vật chống đỡ: Ê-sai đã mô tả trái đất hình tròn “The circle of the earth: Vòng trái đất”. Trong tiếng Hê-bơ-rơ chữ “Khug” được dịch là vòng tròn, hoặc hình cầu, giống như quả cầu, là điều chính xác không ai chối cải được. 

Dân Hê-bơ-rơ, dân tộc cổ xưa, duy nhất tin rằng trái đất hình tròn chứ không phải hình dẹp. Cách đây 2700 năm Ê-sai đã được Đức Thánh Linh cảm thúc và viết lên quả đất hình tròn: “Ngài Đấng ngự trên vòng trái đất” (Ê-sai 40:22). Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ các em bé học lớp ba cũng biết xác chứng quả đất hình tròn. 

Niềm tin về trái đất lơ lửng giữa khoảng không, không được chống đở bởi một vật gì đã không được khám phá ra, cho đến thế kỷ thứ 15 mới được đề cập đến. Tuy nhiên giới khoa học chưa chấp nhận, mãi cho đến thế kỷ thứ 17 mới nhận ra lẽ thật. Trong lúc đó Gióp 26:7 mô tả “…Ngài treo trái đất trong khoảng không không” (He hangs the earth on nothing). 

Các ngôi sao vô số không thể đếm được: Từ ngàn năm xưa có những con người yêu mến thiên văn học, họ tìm cách đếm những ngôi sao:

- Hipparchus sống vào 150 T. C. đã đếm không tới 3000 ngôi sao. 
- Ptolemy sống 150 S. C. đã đếm được 1058 ngôi sao. 
- Kepler sống vào 1571-1630 đã đếm được 1005 ngôi sao. 
- Galileo sống vào 1609 đã phát minh ra viễn vọng kính và khám phá ra rằng các ngôi sao không thể đếm được. 

Ngày nay chúng ta biết rằng mặt trời là một trong số 100 tỉ ngôi sao trong dãy Ngân hà[1], và các thiên hà khác (Thiên hà: tập hợp rất nhiều ngôi sao, hàng trăm tỉ, trong đó Hệ Mặt Trời chỉ là một bộ phận rất nhỏ) cũng có số lượng ngôi sao tương đương như vậy. Lời Đức Chúa Trời qua các tiên tri đã nói rất đúng: “Không ai có thể đếm được các tinh tú trên trời và lường hết cát dưới biển; Ta cũng sẽ làm cho con cháu Đa-vít, đầy tớ ta, và con cháu Lê-vi, kẻ phục vụ Ta, đông nhiều như vậy” (Giê-rê-mi 33:22). Đức Chúa Trời hứa chúc phước cho Áp-ra-ham, một con người lại là một người già yếu, sanh ra muôn vàn con cháu, đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được (Hê-bơ-rơ 11:12 Vì thế, cũng từ một người xem như đã chết, lại sinh ra muôn vàn con cháu, đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được). 

B. KHÍ TƯỢNG HỌC

1. Vòng hơi nước: Cách đây gần 4000 năm, Kinh thánh đã nói về vòng hơi nước tức sự vận hành của nước bốc hơi, ngưng tụ, thành mây, thành mưa hoặc thành tuyết rơi xuống đất, rồi lại bốc hơi. Dầu vậy các nhà khoa học vẫn chưa hiểu đầy đủ quá trình nầy, cho mãi đến thế kỷ 19, kiến thức khoa học gia tăng họ mới thấu hiểu được sự vận hành của vòng hơi nước.

Trong lúc đó, Gióp 36:27-28 đã xác chứng: “Vì Ngài gom các giọt nước lại, Rồi lọc những giọt sương mù thành mưa; Các tầng mây tuôn mưa xuống, Tưới tràn trề trên loài người”. (Truyền đạo1:7 Mọi sông đều đổ vào biển, Nhưng biển vẫn không đầy; Nơi mà sông thường chảy vào, Thì từ đó sông lại tiếp tục chảy ra).

2. Sự tuần hoàn của không khí: Luồng chuyển vận của gió và không khí không được các nhà khoa học khám phá. Cách đây 100 năm, các nhà khoa học mới sử dụng những quả bóng thời tiết ở độ cao để khám phá ra rằng hơi ấm bắt đầu ở tại xích đạo, tràn xuống hai cực, nó lạnh đi và rơi xuống bề mặt của trái đất, là nơi một lần nữa nó lại tràn về xích đạo để bắt đầu lại chu trình nầy. Sự kiện nầy đã được Gióp và vua Sa-lô-môn đề cập đến: Gióp 28:25 “Chúa định hướng cho các luồng gió và đặt biên giới cho các đại dương” (Theo bản diễn ý). Một bản khác dịch “Ngài định sức nặng cho gió”. Gióp nói tiếp “Gió lốc từ phương nam kéo tới, Gió lạnh từ phương bắc tràn về” (Gióp 37:9).

Sa-lô-môn cũng đồng một quan điểm như Gióp “Mặt trời mọc, mặt trời lặn, nó lật đật trở về nơi nó mọc. Gió thổi về hướng nam, kế xây qua hướng bắc; nó xây đi vần lại không ngừng, rồi trở về vòng cũ nó” (Truyền đạo 1:5-6). Tiến sĩ Lê Hoàng Phu dịch “Mặt trời mọc, lặn, xoay vần không dứt. Gió thổi nam, thổi bắc, quanh đi vòng lại”.

3. Sấm Chớp: Đề cập đến vấn đề nầy Gióp đã nói nhiều năm về trước: “Ai đào kinh cho nước mưa chảy, phóng đường chớp nhoáng của sấm sét” (Gióp 38:25).

Vào năm 1930, các máy chụp hình với tốc độ cao đã chụp ánh sáng của chớp. Khi chiếu lại trên màn ảnh với tốc độ chậm, các nhà khoa học đã ghi nhận rằng: Trước khi chớp phát ra với tiếng sấm kèm theo, đã có một đường phóng. Đường phóng nầy là việc thăm dò ban đầu của sức mạnh năng lượng điện đến mặt đất. Khi tia phóng đến gần mặt đất nó hút một chuỗi điện tích từ mặt đất về phía nó. Tia phóng và chuỗi điện tích gặp nhau, có một con đường chuẩn bị cho chớp xuất hiện, lập tức ánh chớp trở thành một tia sáng thấy rõ. 

Điều nầy cho chúng ta thấy từ tia chớp, vòng hơi nước hay sự tuần hoàn của không khí đều được Thiên Chúa dự phòng, lo liệu, tính toán để mọi sự kiện xẩy ra trong trật tự vì Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời trật tự. 

C. SINH VẬT HỌC

Tất cả các động vật tái sản sinh đều tuỳ theo loại của chúng: Từ nhiều thế kỷ nay người ta tin rằng một loài động vật có thể giao phối với động vật khác để cho ra đời một loài động mới. Điều nầy đã được chứng minh là không thể, vì mỗi loài đều có số lượng nhiểm sắc thể khác biệt và cụ thể. Chúng là những tế bào tái sản sinh chính nó để cho ra đời con cháu. Hai loài động vật cùng một loài có thể cho ra đời loài thứ ba. Ví như con ngựa và con lừa có thể cho ra một con la, nhưng khi điều nầy xẩy ra thì thế hệ con cái không có khả năng sinh sản. Chúng không tạo được một loài mới. Một lần nữa Kinh thánh lại đúng như lời Chúa xác chứng: “Đức Chúa Trời sáng tạo các loài cá khổng lồ, mọi loài động vật thủy sinh, tùy theo loại mà sinh sôi nẩy nở trong nước, và mọi loài chim có cánh tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó và phán: “Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy gia tăng thật nhiều trên đất.” Vậy, có buổi tối và buổi sáng. Đó là ngày thứ năm. Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh các động vật tùy theo loại: gia súc, các loài bò sát và thú rừng tùy theo loại,” thì có như vậy. Đức Chúa Trời tạo nên các loài thú rừng tùy theo loại, gia súc tùy theo loại, và mọi loài bò sát trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. (Sáng thế ký 1:21-25).

1. Tại sao không được kết hôn với những người bà con gần?

Loài người có hơn 300 gien khiếm khuyết gây ra những khuyết tật như: điếc, mù loà, mù màu, dư tứ chi, tứ chi ngắn, hay chảy máu, bạch tạng, tiểu đường v. v… Khi những người bà con gần kết hôn lẫn lộn, những gien khuyết tật nầy có khả năng truyền lại cho con cháu nhiều hơn. Một nan đề đặt ra con cháu của Cain và Sết, những người nầy đã kết hôn với chị em ruột của họ thì sao? Vào thời kỳ mới khai thiên lập địa dân số chưa đông, các gien khiếm khuyết nầy chưa xuất hiện trong loài người. 

Một bộ tộc tại Phi châu đã phải chịu một sự biến dạng khiến các ngón chân của họ chỉ còn lại hai ngón lớn trong hình chữ “V” như bàn chân đà điểu. Khuyết tật nầy là kết quả của việc giao phối giữa những người bà con gần với nhau. Những người đã tái định cư và kết hôn với những người không có mối quan hệ bà con gần thì sinh ra con cháu bình thường.

2. Mọi xác thịt đều không giống nhau:

Từ xưa cho mãi đến thế kỷ 20, các nhà khoa học đều tin rằng tất cả những loài xác thịt hầu như đều giống nhau. Mãi đến năm 1930, kính hiển vi điện tử được phát minh, các nhà khoa học mới nhận biết các tế bào đều hoàn toàn khác nhau về cấu trúc. Ngày nay ngành khoa học hiện đại đã nhận ra bốn sự phân chia của các loài xác thịt: con người, thú vật, loài cá và chim chóc. Sự phân chia nầy chính xác như Phao-lô đã nhận định “Không phải mọi thể xác đều giống nhau; thể xác của loài người khác, thể xác của loài thú khác, của loài chim khác, của loài cá khác” (I Cô-rinh-tô 15:39). Một lần nữa lời của Đức Chúa Trời là chính xác, khiến các nhà khoa học chống đối đành chấp nhận. 

[1] Ngân hà: Dải sáng màu trắng nhờ vắt ngang bầu trời, do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quang, (Tự điển VN)

(NHỮNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC VÀ NIỀM TIN)