BÀI TRỪ CỦA GIẢ

Cơ Đốc giáo vốn bị ba điều giả dối phổ biến bao vây.
Điều thứ nhất là chủ trương cho rằng việc tin theo Cơ Đốc giáo thường tuỳ thuộc vào sự rủi may do được sinh ra trên đời này. Nếu tôi ra đời trong một “quốc gia theo Cơ Đốc giáo”, thì rất có thể – và thậm chí có lẽ là điều không thể tránh né vào đâu được – là cá nhân tôi sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân.
Điều thứ hai là bảo rằng Cơ Đốc giáo lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của con người hiện đại, và rằng phần lớn người trở thành Cơ Đốc nhân chỉ là những con người chất phác muốn tìm nơi trú ẩn cho cuộc đời mình mà thôi.
Điều nhầm lẫn phổ biến thứ ba là lý luận rằng nhiều người sở dĩ tin theo Cơ Đốc giáo là để được thuận tiện và được lợi ích vật chất cho bản thân mà thôi.
Talib Barwani người Zanzibar, Tanzania, thuộc Đông Phi, là một mâu thuẫn sống đối với cả ba điểm sai lầm vừa kể trên.
Ra đời trong một đất nước không có Cơ Đốc giáo, ông đã trở thành Cơ Đốc nhân tại một quốc gia khác.
Là một người thông minh, giỏi tiếp thu, ông đã công tác trong nhiều lãnh vực kỹ thuật nhiều đòi hỏi của khoa học ứng dụng, kể cả ngành viễn thông quân sự, và gần đây hơn, là ngành cơ khí điện tử. Chỉ sống một cuộc đời của kẻ tạm trú, ông đã du hành trọn một vòng chung quanh thế giới trước khi được hai mươi tuổi.Và với Talib, thì trở thành Cơ Đốc nhân là rất trái ngược với sự thuận tiện cá nhân. Khi trở về quê hương để báo tin về đạo mà mình mới tìm thấy với bà con thân thuộc và bạn bè, ông đã thật sự gây kinh hoàng vì một số người đã cố tìm cách báo thù nỗi “nhục nhã” mà ông đã gây nên cho gia đình ông. Ông sợ rằng chính đồng bào ông sẽ tìm cách sát hại ông!
Talib Barwani là dân bản địa Zanzibar, xứ Tanzania. Được đào tạo trong Không lực Hoàng gia Anh quốc, về ngành viễn thông mặt đất. Sau đó ông công tác trong phòng thí nghiệm truy tìm lỗi sơ sót của hãng Marconi, một công ty điện tín quốc tế.
Được kêu gọi vào công tác truyền bá Cơ Đốc giáo, ông công tác sáu năm với tư cách chuyên viên của một phi trường ở miền nam nước Pháp.
Ông hiện phục vụ cho hội truyền giáo của mình với cương vị thư ký đại diện cho quê hương ông tại Loughboroug, Anh quốc.
Tôi được sinh ra trong gia đình Hồi giáo ở Zazibar.
Hồi còn bé, tôi được dạy cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời, kiêng ăn, và làm việc thiện. Chúng tôi đồng thời được dạy rằng bộ Kinh Thánh mà Cơ Đốc giáo hiện có là không đáng tin – rằng bộ sách ấy đã bị thay đổi đi, chứ không phải là các sách nguyên văn của những nhà tiên tri đời xưa.
Khi lớn lên, tôi bắt đầu suy nghĩ chẳng hay phần còn lại của thế giới này như thế nào. Lúc hãy còn là một thiếu niên mới hơn mười tuổi, tôi đã bỏ nhà và du hành đến Ấn độ. Tại đó, tôi đã gặp may đủ để có thể làm việc trên chiếc tàu chỡ hàng của mình, nhờ đó tôi được đi vòng quanh thế giới. Tôi trở lại quê hương và kể lại cho mọi người nghe các kỳ quan mà tôi đã được nhìn thấy – kể cả một số kỳ quan mà tôi không nhìn thấy. Quả thật là một cơ hội lớn cho tôi. Tôi tạm thời trở thành một người hùng – cho đến khi một số bạn bè tôi đã nghe các câu chuyện kể của tôi nhiều lần. Rồi tôi lại phải ra đi, để thu thập nhiều thêm nữa.
Lần sau, tôi lại đến Ấn độ, rồi từ đó quay lại A-ra-bi. Tôi làm việc một thời gian trong lãnh vực dầu khí ở Vịnh Ba-tư. Rồi tôi quyết định đi Anh quốc, với hoài bão có thể học thêm và mở rộng nền học vấn cấp đại học của mình.
Lúc tôi lao vào các vấn đề của kế hoạch đó, tôi đã gia nhập Không lực Hoàng gia Anh quốc. Tôi đã từng phát triển một mối quan tâm đến ngành điện tử, nên sau thời gian thụ huấn của RAF về viễn thông trên đất liền, tôi được phái ra hải ngoại – ngay trên lục địa của tôi, tức là Phi châu! Căn cứ của tôi là một trạm gồm Tobru, xứ Li-by. Trong khi phải sống trong các nhà trại, các thành viên trong đại đội của tôi đều trở thành bạn rất thân với nhau.
Một đêm nọ, khi trở về trại của mình, tôi thấy một trong những bạn thân người Anh của tôi ở đó – một người mà tôi thường đi bơi và ra ngoài với anh ta. Tôi rất ngạc nhiên, vì thấy anh đang quỳ gối bên cạnh chiếc giường của mình và đang cầu nguyện! Tôi chờ cho đến khi anh đứng dậy, và bắt đầu đặt nhiều câu hỏi với anh. Làm thế nào anh ta lại thình lình trở thành người có đạo như thế? Tôi đã ngạc nhiên tự hỏi như thế. Trước đây, tôi chưa hề thấy anh ta cầu nguyện.
Anh ta đáp: “Không phải là tôi thình lình trở thành người có đạo đâu. Tôi vốn là Cơ Đốc nhân mà!”
Tôi nói: “Phải, nhưng không phải tất cả các anh đều là Cơ Đốc nhân cả sao? Các anh vốn được sinh ra trong một quốc gia theo Cơ Đốc giáo kia mà!”. Vì tôi được sinh ra là một người hồi giáo trong một nước theo Hồi giáo, cho nên tôi tưởng mọi người ở Âu, Mỹ Châu và nhiều nơi khác nữa đều là những Cơ Đốc nhân có đạo dòng.
Anh ta đáp: “Không đâu. Thật ra thì trong xứ của chúng tôi, những người thật sự là Cơ Đốc nhân với những người không có đạo rất khác xa nhau. Có nhiều người sống tại các nước mệnh danh là theo Cơ Đốc giáo, nhưng họ chẳng hề đặt đức tin vào Đức Chúa Trời!”
Tôi bắt đầu kể với anh ta về bài tín điều của tôi về nhà tiên tri của chúng tôi, và về quyển sách mà chúng tôi xem là có thẩm quyển. Đáp lại, anh ta kể cho tôi nghe về Cơ Đốc giáo. Theo điều tôi được biết, thì chúng tôi chỉ đơn giản trao đổi cho nhau các nhận xét của mình về hai tôn giáo của chúng tôi mà thôi.
Nhưng khi anh ta nói cho tôi biết nhiều hơn về Chúa Cứu Thế Giê-xu, rằng Ngài là Cứu Chúa duy nhất, tôi rất tức giận. Tôi chưa hề nghe điều gì chứng tỏ một đầu óc hẹp hòi như thế trong đời sống của mình!
Các Cơ Đốc nhân này tự cho họ là ai? Tôi nghĩ : Tại sao họ lại nghĩ rằng họ là những người được đặc ân của Đức Chúa Trời như thế?
Tôi đã phạm vào sự sai lầm phổ biến là tưởng rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu chỉ dấu riêng cho những người được sinh ra trong các quốc gia mà đại đa số dân chúng là Cơ Đốc nhân. Hồi đó tôi vẫn chưa nhận thức được rằng quả thật Chúa Cứu Thế Giê-xu chính là Đức Chúa Trời có một – và là Cứu Chúa của cả thế gian.
Tôi đã không muốn nghe nữa; và chỉ nghe cho đúng lễ phép mà thôi. Nhưng rồi anh ta nói đến một câu trong sách Khải huyền của Giăng. Theo câu đó thì: “Này, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nhe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tôi với người và người với ta” (Kh 3:20).
Bất chấp mọi dự định là tôi sẽ không tin bất cứ điều gì các Cơ Đốc nhân nói, nhưng câu này đã đánh thẳng vào mọi biện pháp phòng thủ của tôi. Bấy giờ tôi vẫn chưa hề biết được rằng Lời Đức Chúa Trời lại có quyền năng đến thế! Tôi, chỉ được biết rằng Chúa Giê-xu là Cứu Chúa duy nhất, và tôi cần đến sự cứu rỗi của Ngài.
Nhưng tôi không thể thừa nhận một việc như thế. Anh Cơ Đốc nhân trò chuyện với tôi này thật nguy hiểm: anh ta đã khiến tôi bị rúng động hoàn toàn. Tôi muốn lánh xa anh ta ngay tức khắc. Tôi nói được gặp anh ta là điều rất hay, và cám ơn anh ta vì đã nhín thì giờ trò chuyện với tôi – tất cả những gì một người có thể nói mà chẳng hề ngụ ý muốn nói như thế, khi nói lời tạm biệt với người kia.
Thế là tôi thoát được anh ta – nhưng không thể thoát được Đức Chúa Trời! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng sở dĩ đồng bào tôi bảo rằng Thánh Kinh sai lầm là vì quyển sách thánh của họ nói những điều khác hơn thế; cho nên cả hai không thể đồng thời đúng được. Nhưng bộ Thánh Kinh hiện nay hầu như hoàn toàn giống với bộ Thánh Kinh từ 200 năm trước khi đạo của cha mẹ tôi được sáng lập, như các cổ bản tại viện Bảo tàng Anh quốc đã xác nhận. Thật khó có thể đó là lỗi lầm của các Cơ Đốc nhân nếu nó không giống với quyển sách thánh của Hồi giáo.
Quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh còn có nhiều lời cảnh cáo khủng khiếp cho bất cứ ai muốn thay đổi Kinh điển của Đức Chúa Trời. Do những lời cảnh cáo ấy, các Cơ Đốc nhân không dám giả mạo bộ Sách mà họ đã bảo là Lời của Đức Chúa Trời kia. Tôi ngày càng bị thuyết phục hơn rằng đồng bào dân tộc tôi cũng là những người mà Chúa Cứu Thế đã chịu chết thay cho.
Cho dù có cố gắng đến đâu, tôi cũng không thể đánh đuổi được câu trong sách Khải huyền kia ra khỏi tâm trí mình. Một ngày nọ, tôi vào một căn nhà tiền chế của quân đội Anh mà một số Cơ Đốc nhân dùng làm nhà thờ trong sa mạc. Bên trong ngôi nhà ấy, tôi đã quỳ xuống và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tiếp nhận tôi làm một trong số các con cái Ngài, để vì danh Chúa Cứu Thế tha tội cho tôi, và ngự vào trong đời sống tôi. Tôi tức khắc cảm thấy mình được tràn đầy niềm vui và sự bình an – một điều gì đó mà tôi chưa hề được trải nghiệm kể từ hồi tôi hãy còn là một cậu bé.
Nhưng từ đó trở đi thì cuộc đời không còn là một chuyến ra khơi phẳng lặng trên một con tàu nữa. Điều có ý nghĩa nhất, là tôi muốn hồi hương để chia sẻ tin tức của tôi cho gia đình: tôi đã không có ở đó từ khoảng bốn năm rồi. Khi trở về Zanzibar, tôi đã phải đương đầu với một thời kỳ khó khăn và bị hiểu lầm. nguy hiểm không có trong gia đình, vì gia đình chúng tôi vốn đoàn kết thật chặt chẽ, ai này đều yêu mến lẫn nhau. Nhưng nguy hiểm vốn từ những người vây quanh gia đình chúng tôi. Tôi thật sự sợ hãi có một ai đó đang quyết tâm muốn giết tôi. Chắc bạn đã thấy đó, khi từ bỏ đạo của gia đình dòng tộc mình, là tôi đã trở thành một kẻ bất trung, một kẻ vô tín và là một kẻ bị gạt ra ngoài lề. Do đó, tôi trở thành nội nhục nhã cho gia đình, mà đối với một kẻ đã làm chuyện ấy, thì người ta được phép trừ khử – nói trắng ra là xử tử! Nhưng Chúa đã bảo vệ tôi, và tôi biết là mình có thể phó thác mạng sống cho Chúa Giê-xu.
Tôi đi khắp vùng đất thuộc xứ Tanzania, tìm những Cơ Đốc nhân xin làm phép báp-tem cho tôi, rồi trở vệ căn cứ ở Li-by. Khi chúng ta sống với Chúa, Ngài thay đổi mọi thái độ và cách suy nghĩ của chúng ta. Tôi nhận thấy cách nhìn đời của mình đã khác hẳn trước. Tôi hoàn tất thời kỳ phục vụ trong Không lực Hoàng gia Anh quốc và trở về nước Anh để tiếp tục hành nghề điện tử của mình.
Trong những năm tiếp theo đó, tôi rất được khích lệ khi thấy Chúa làm việc tại nhiều nước khác nhau theo nhiều cách khác nhau. Tôi tin rằng đã đến lúc Đức Chúa Trời hành động cho đồng bào theo đạo cũ của tôi ở khắp nơi. Mới đây, tôi có đi thăm nhiều nhà thờ tại một quốc gia khác ở Bắc Phi. Thật là một cơ hội tốt để cùng chia sẻ mối thông công với các tín hữu ở đó, học hỏi được nhiều điều, được thấy Hội Thánh tăng trưởng và phát triển. Nhiều cấp lãnh đạo hãy còn trẻ, nhưng đã trưởng thành thuộc linh và có khải tượng thuộc linh thật rõ ràng. Được thấy như thế là điều rất hay. Chúa đang xây dựng Hội Thánh Ngài ngay trong những môi trường đầy hận thù, đố kỵ.
Hiện đang có nhiều người kính sợ Đức Chúa Trời trong các tôn giáo đang trông chờ nhận được chân lý của Phúc Âm. Khi nào đồng bào dân tộc tôi nhận thức được rằng Chúa Cứu Thế là Chúa tể đầy vinh hiển, thì bạn sẽ chẳng có cách gì để cứ giữ cho họ xa lìa Ngài!