Tin Lành theo Giăng trình bày Chúa Jêsus như là Lời Vĩnh Cửu của Đức Chúa Trời, là Đấng đã giáng thế làm người và cư ngụ giữa chúng ta (1:14). Tin Lành Giăng nói rõ, sách này được viết ra để người đọc có thể tin rằng Chúa Jêsus chính là Chúa Cứu Thế theo lời hứa, Con của Đức Chúa Trời, và nhờ đức tin nơi Chúa Jêsus mà họ nhận được sự sống vĩnh cửu (20:31).
Sau lời giới thiệu xác nhận Ngôi Lời chính là Chúa Jêsus, phần đầu của sách Tin Lành Giăng trình bày những phép lạ chứng tỏ Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế theo lời hứa, Con của Đức Chúa Trời. Theo sau những điều này là các cuộc đàm luận giải thích những điều được mặc khải qua các phép lạ. Phần này của sách cũng trình bày thể nào một số người đã tin và trở nên môn đồ của Chúa Jêsus, trong khi đó một số khác đã chống đối và không tin Ngài. Các chương 13 đến 17 ghi lại khá nhiều chi tiết về mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Jêsus với các môn đồ vào đêm Chúa bị bắt, và những lời dạy dỗ, khích lệ của Chúa cho họ trước khi Chúa chịu đóng đinh trên cây thập tự. Những chương cuối tường thuật rõ sự kiện Chúa Jêsus bị bắt, xử án, đóng đinh, sự phục sinh, và những lần hiện ra của Ngài sau khi sống lại.
Câu chuyện về người đàn bà tà dâm bị bắt quả tang (8:1-11) được đặt trong ngoặc bởi vì nhiều cổ bản và các bản dịch sớm bỏ sót câu chuyện này, trong khi nhiều thủ bản khác đặt nó ở nhiều chỗ khác nhau.
Tin Lành Giăng nhấn mạnh đến sự sống vĩnh cửu trong Đấng Christ, là một tặng phẩm hiện nay dành sẵn cho những ai đáp lại và tin nhận Chúa Jêsus là con đường, chân lý và sự sống. Một đặc điểm nổi bật trong sách Tin Lành Giăng là việc sử dụng những hình ảnh thông thường mang tính biểu tượng trong cuộc sống để nói đến những hiện thực thuộc linh như nước, bánh, ánh sáng, người chăn và chiên, cây nho và trái của nó.
Bố cục
Phần mở đầu (1:1-18)Giăng Báp-tít và những môn đồ đầu tiên của Chúa Jêsus (1:19-51)Chức vụ công khai của Chúa Jêsus (2:1-12:50)Những ngày cuối cùng gần và tại Giê-ru-sa-lem (13:1-19:42)Sự phục sinh và những lần hiện ra của Chúa (20:1-31)Phần kết thúc: những lần hiện ra khác tại Ga-li-lê (21:1-25)